
Những nguyên tắc ứng phó với khủng hoảng - Principles for navigating big debt crises by Ray Dalio - Chương 2
0
19
0

(2025.04.10)
Suy thoái kèm lạm phát và khủng hoảng tiền tệ
(1) Giai đoạn sớm của chu kỳ
Dấu hiệu:
Tổng nợ của nền kinh tế thấp, gánh nặng nợ nhỏ và bảng cân đối kế toán lành mạnh
Nợ và Thu nhập tăng trưởng tương đồng với nhau
Các hoạt động xuất khẩu tốt và môi trường thu hút đầu tư nước ngoài tạo ra th ặng dư lớn về ngoại tệ.
Nhằm giữ sức mạnh đồng nội tệ ở múc thấp để tạo sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, ngân hàng nhà nước sẽ thực hiện bơm thêm nội tệ ra thị trường và thu mua ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối ngày một tăng lên.
Nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đều hưởng lợi từ: (1) Lượng tiền đổ ra thị trường làm giá tài sản tăng lên, (2) Inflow ngoại tệ làm cho sức mạnh đồng nội tệ vẫn duy trì ở mức vừa phải.
(2) Bong bóng
Dòng tiền ngoại tệ chảy vào và nội tệ được bơm ra mạnh mẽ làm cho bong bóng xuất hiện theo một quy trình tự củng cố:
New capital - Good return - Asses price appreciation - new capital
Dấu hiệu:
Đồng nội tệ mạnh nhờ vốn ngoại tệ được bơm vào (thông thường đạt 10% GDP)
Dự trữ ngoại hối tăng
Kinh tế tăng trưởng mạnh
Thị trương tài chính tăng trưởng mạnh (thông thường tăng trưởng liên tục trên 20% trong nhiều năm)
Chi tiêu gia tăng, nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, tài khoản vãng lai âm.
Nợ và gánh nặng nợ tăng nhanh (thôngt thường Nợ/GDP tăng trên 10% liên tục trong 3 năm)
Nợ nước ngoài gia tăng (thông thường đạt 35% / tổng nợ và 45%/GDP)
GDP thực tế tăng trưởng mạnh hơn GDP tiềm năng: GDP gap = +4%
(3) Đỉnh
Khi giá tài sản đã ở mức quá cao và gánh nặng nợ đã quá lớn để có thể mang lại lợi suất hấp dẫn.
Dấu hiệu tạo đỉnh thường thấy:
Xuất khẩu giảm (đồng nội tệ mạnh làm giá cả hàng hoá sản xuất ra quá đắt đỏ)
Chi phí nhập khẩu hoặc chi phí vốn tăng lên.
Vốn nước ngoài đầu tư / cho vay giảm vì:
Giá tài sản quá cao để mang lại lợi suất hấp dẫn
Tín hiệu bất ổn kinh tế hoặc chính trị
Chính sách thắt chặt tiền tệ
Người dân/doanh nghiệp không muốn nắm giữ đồng nội tệ
Tăng trường chậm tương ứng với sự sụt giảm dòng chảy vốn nước ngoài đầu tư/cho vay.
Đầu tư ra nước ngoài có dấu hiệu tăng
Lợi nhuận tư xuất khẩu giảm do việc giảm giá và số lượng. Thông thường xuất khẩu sẽ đi ngang hoặc sụt giảm nhẹ.
Các nỗ lực bảo vệ đồng nội tệ của ngân hàng trung ương như: Tăng lãi suất và Bán dự trữ ngoại hối sẽ có hiệu quả tạm thời nhưng về mặt lâu dài sẽ càng làm trầm trọng thêm vấn đề: Đồng tiền ngày càng mất giá và kinh tế ngày càng đi xuống.
(4) Suy thoái
Xảy ra sau khi các nhà làm chính sách ngừng việc bảo vệ đồng nội tệ bằng những cách không bền vững và chấp nhận đồng tiền mất giá.
Dấu hiệu:
Đồng tiền mất giá trung bình 30%.
Việc tăng lãi suất ngắn hạn không thể cứu vãn tình hình.
Dự trữ ngoại hối được bán mạnh ra thị trường, thông thường giảm 10%/năm.
Vốn FDI cạn kiệt, giảm mạnh
Lãi suất ngắn hạn tăng, lãi suất dài hạn giảm (đường cong lợi suất đảo ngược)
Giá cả tài sản giảm
Gánh nặng nợ (nội tệ và cả ngoại tệ) tăng lên hơn 5% GDP
Lạm phát tăng (15-30%) và duy trì mức cao trong 2 năm.
GDP gap = GDP thực tế – GDP tiềm năng = -8%
Tỷ lệ thất nghiệp tăng
(5) Phục hồi
Quá trình phục hồi xảy ra khi có sự cân bằng giữa cung cầu đồng nội tệ - Có sức mạnh phù hợp với các đồng ngoại tệ, kích thích xuất khẩu - Lãi suất phù hợp để phát triển thị trường nội địa - Tạo ra lợi suất dương khi nắm giữ nội tệ (lãi suất > lạm phát + trượt tỉ giá
Dấu hiệu:
Giảm nhập khẩu giúp cùng cố cán cân vãng lai (giảm nhu cầu ngoại tệ).
Dòng tiền đầu tư nước ngoài duy trì ổn định.
Dòng tiền đầu tư ra nước ngoài giảm
Thông thường các quốc gia sẽ cần viện trợ của IMF nếu nguồn dự trữ ngoại hối thấp.
Lãi suất ngắn hạn giảm, lãi suất dài hạn vẫn duy trì và tăng dần
Các hợp đồng nội tệ tương lai tăng giá trên thị trường ngoại hối.
Lạm phát giảm
Vòng xoáy từ suy thoái kèm lạm phát đến siêu lạm phát
Siêu lạm phát trong đại đa số các trường hợp được nghiên cứu xảy ra khi các nhà làm chính sách không thể kiểm soát dòng tiền nội tệ và ngoại tệ luân chuyển và in tiền để tài trợ cho việc tiêu dùng bằng ngoại tệ (nhập khẩu).

Tiền được in ra nhưng không được uốn nắn chảy vào các hoạt động kinh tế mà lại chảy vào các tài sản tài chính.

Qua thời gian, các nhà đầu cơ tài sản và bán khống đồng nội tệ có xu hướng đạt được lợi nhuận cao hơn so với các nhà đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Dòng tiền dịch chuyển và giá tài sản quá cao nhưng không tạo được hiệu quả kinh tế tương ứng thông qua việc tăng sản lượng. Giá cả hàng hoá tăng.
Lạm phát lại tiếp tục tự củng cố vào tâm lý người dân dẫn đến một chu trình lạm phát tự củng cố được gọi là wage-cost spiral - Lạm phát chi phí lương tự củng cố , họ yêu cầu
được tăng lương để bù đắp cho sức mua bị giảm sút. Lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, giá cả sản phẩm đầu ra lại tăng tương ứng. Cứ như vậy, một vòng xoáy lạm phát bắt đầu.
Người dân mất dần niềm tin vào đồng nội tệ, do nó không còn là trung gian lưu giữ được giá trị lao động mà họ đã tạo ra.
Kinh tế thời chiến
Khi 1) mâu thuẫn kinh tế giữa người giàu/tư bản/chính trị cánh hữu và người nghèo/vô sản/chính trị cánh tả dẫn đến chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa độc tài lên ngôi, trong khi đó, 2) mâu thuẫn về kinh tế, quân sự và chính trị giữa các quốc gia ngày càng leo thang.

Khi xảy ra chiến tranh, các quốc gia dồn nguồn lực vào sản xuất quân sự, vay nợ lớn và điều chuyển lực lượng lao động sang phục vụ chiến tranh. Sau chiến tranh, cả bên thắng và thua đều đối mặt với hậu quả nặng nề như suy thoái, thất nghiệp và lạm phát, đặc biệt nghiêm trọng hơn với các nước thua cuộc.
Tóm tắt
Việc quản lý khủng hoảng nợ hiệu quả phụ thuộc vào khả năng chia sẻ gánh nặng và đưa ra chính sách đúng đắn.
Rủi ro lớn nhất không nằm ở bản thân các khoản nợ mà nằm ở sai lầm của các nhà làm chính sách vì thiếu kiến thức hoặc thiếu quyền lực thực thi.
Tuy nhiên, hệ thống luật pháp của một quốc gia không bao giờ bao hàm đủ các trường hợp có thể xảy ra để có thể uỷ quyền thực thi cho các nhà làm chính sách.
Bạn chỉ có vài giờ để ra quyết định trong khuôn khổ quyền thực thi hạn chế của mình để đối phó với các cuộc khủng hoảng mà không ai có thể đoán trước mức độ nghiêm trọng và càng không thể đoán trước được hậu quả.

















