top of page
Những nguyên tắc ứng phó với khủng hoảng - Principles for navigating big debt crises by Ray Dalio - Chương 3

May 21

11 min read

0

18

0

ree

(2025.05.21)

Chiến tranh thế giới thứ nhất (07/1914 - 11/1918)

Đức chấm dứt chế độ bản vị vàng vào năm 1914, khi làn sóng bank run diễn ra ngay khi chiến tranh được khơi mào. Vàng các tất cả các tài sản sản bắt đầu tăng giá điên cuồng.

ree

Chiến tranh rất tốn kém, ngân sách thâm hụt, mà chính phủ không thể đánh thêm thuế lên người dân trong giai đoạn kinh tế khó khăn, trong khi Đức đang bị locked out không thể đi vay mượn quốc tế. Sự lựa chọn duy nhất đó là gia tăng nợ công.

ree

Đến cuối năm 1916, nợ công tăng lên quá cao và lạm phát leo lên 30% trong khi trái phiếu chính phủ chỉ trả 5%/năm, lợi suất "cực" âm khiến cho người dân bắt đầu bán tháo trái phiếu chính phủ.

ree

Tình thế bắt buộc Đức phải đi vay ngoại tệ trong 2 năm cuối của cuộc chiến tranh với kỳ vọng rằng khi chiến thắng cuộc chiến, đồng Mark sẽ lên giá làm giảm áp lực nợ cho chính phủ.

Kết thúc chính tranh, Đức đạt đủ các "điều kiện" mà Ray Dalio đã đúc kết được để một nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái kèm lạm phát:

  • Không có dự trữ ngoại hối

  • Nợ ngoại tệ lớn

  • Thâm hụt ngân sách lớn

  • Lãi suất thực âm

  • Đã có tiền lệ lạm phát và lợi suất đồng tiền âm.


Hiệp định Versailles và làn sóng lạm phát đầu tiên (11/1918 - 03/1920)

Đức đầu hàng vào tháng 11/1918, đánh dấu một làn sóng dịch chuyển vốn ra ngoài nước Đức sang trú ẩn ở các tài sản được định giá bằng đồng tiền của các nước đồng minh.

Chỉ trong vài tháng sau đó, đồng mark Đức giảm 30%, cung tiền tăng lên 50% và lạm phát leo lên 30%

ree

Hiệp định Versailles đã áp đặt một gánh nặng đền bù chiến phí quá nặng nền lên nền kinh tế Đức. Đồng mark điên cuồng mất giá đến 140% vào cuối năm 1920.

ree

Bù lại, đồng mark suy yếu giúp kích thích nền kinh tế, giá cả hàng hoá và tài sản tăng mạnh, tỉ lệ thất nghiệp giảm và xuất khẩu tăng trưởng.

Các nhà làm chính sách ở Đức đã lựa chọn phương án phân phối lại tài sản giữa người giàu (the have) và người nghèo (the have nots) bằng cách đưa ra các sắc thuế mới, chấp nhận lạm phát cao giúp giảm gánh nặng nợ "một cách tự nhiên".

"Inflation is unjust and deflation is inexpedient""Lạm phát là bất công và giảm phát là không thích hợp."by John Maynard Keynes

Trong một xã hội nghèo khổ thì việc gây ra thất nghiệp tồi tệ hơn so với việc làm giảm lợi suất đầu tư của giới tư bản (bằng lạm phát)

ree

Bắt đầu ổn định (03/1920 - 05/1921)

Nền kinh tế Đức không sụp đổ và chính trị Đức vẫn ổn định, trái ngược với nhiều người dự đoán (và đã mất rất nhiều tiền khi short đồng mark Đức).

Ngược lại trong bối cảnh thắt chặt chính sách tiền tệ của Mỹ và UK trong cùng thời kỳ, Đức luôn giữ chính sách nới lỏng giúp sản xuất công nghiệp Đức tăng trưởng 75%. GDP phục hồi nhưng vẫn còn thấp so với mức 1913.

ree

Chính sách kích thích kinh tế lại không gây áp lực lạm phát trong bối cảnh giảm phát kinh tế toàn cầu và dòng vốn ngoại đổ vào làm cân bằng tỷ giá đồng mark.

Tuy nhiên, một nền kinh tế phát triển với đồng nội tệ cân bằng nhờ dòng tiền đầu cơ từ nước ngoài sẽ rất mong manh (các dòng vốn này luôn sẵn sàng tháo chạy bất cứ lúc nào)


(29 May 2025)

Tối hậu thư London (05/1921)

Tháng 05/1921, một khoảng chiến phí lớn bằng 330% GDP của Đức được các nước đồng minh áp đặt trong tối hậu thư London. Đồng Mark ngay lập tức sụp đổ 75% và lạm phát tăng mạnh.

ree

Đức đứng trước các lựa chọn:

  • Giảm chi tiêu: Hơn 50% chi tiêu công đã được sử dụng để trả chiến phí, phần còn lại cho an sinh xã hội còn quá eo hẹp để có thể cắt giảm thêm. Rủi ro chính trị bất ổn với Đảng Cộng Sản đang nhen nhóm (song song với sự phát triển của Đảng Cộng Sản Bolshevik ở Nga) với các cuộc biểu tình, cướp bóc, chống phá và ám sát khắp nơi.

  • Tăng thu: Thuế đã được tận thu ở mức cực kỳ cao kể từ Cải cách Erzberger 1919. Tăng thuế không những mang lại rủi ro tương tự như việc giảm chi tiêu công mà còn dẫn đến việc tư bản chuyển tiền ra nước ngoài - "capital flight", làm suy yếu đồng nội tệ.

  • Trang trải nợ bằng tiền vay mới: Vay nước ngoài một khoản tiền đủ lớn (khổng lồ) là chuyện bất khả thi do:

    • Tất cả các nước phát triển đều đang chịu một gánh nặng nợ đến từ các chi phí trang trải cho chiến tranh.

    • Chính phủ Đức và các tổ chức, người dân Đức đều không có đủ điều kiện tín dụng để vay nợ.

  • Hoãn huỷ nợ: các nước đồng minh đe doạ sẽ chiếm đóng nếu Đức không chấp nhận các khoản nợ này nhằm đền bù cho chiến phí từ cuộc chiến do Đức phát động.

Tất cả những khó khăn trên đã ép nhà cầm quyền Đức phải dựa hoàn toàn vào việc in tiền để vượt qua khủng hoảng. Họ đánh cược rằng lạm phát chính là điều ít tồi tệ nhất trong các sự lựa chọn tồi tệ khác.

Theo ý kiến của Ray Dalio, ông cho rằng Đức đã phạm sai lầm trong việc không thể cân bằng các áp lực lạm phát và giảm phát.


(02/06/2025)

Vòng xoáy lạm phát (06/1921 - 12/1921)

Mặc dù đã thực hiện lựa chọn "ít tồi tệ nhất" nhưng việc bơm tiền của ngân hàng trung ương Đức đã đưa nền kinh tế vào vòng xoáy lạm phát lên đến 100% vào cuối năm 1921.

Lạm phát cao làm tăng nhu cầu tích trữ hàng hoá nhằm bảo tồn sức mua trước lo ngại đồng tiền mất giá.

Tương tự, thị trường chứng khoán tăng mạnh không phải vì các yếu tố kinh tế cơ bản hay chiết khấu lợi tức trong tương lai mà bởi vì mọi người muốn thoát khỏi tất cả các vị thế nắm giữ đồng mark.


(05/06/2025)

Thoả thuận hoãn nợ (01/1922 - 05/1922)

Thông thường, con nợ (Đức) luôn muốn hoãn giãn nợ còn chủ nợ (đồng minh) thì cố gắng lấy được nhiều tiền nhất cso thể mà không làm cho con nợ rơi vào cảnh phá sản. Cả 2 đều chơi chiến lược "brinkmanship - bên miệng hố chiến tranh", nghĩa là cố gắng đạt được mục đích của mình bằng cách đe doạ sẽ gây hại cho đối phương.

Vào tháng 01/1922, thoả thuận tạm thời cắt giảm 75% nợ đã giúp nền kinh tế Đức có không gian để phát triển.

Đồng mark tăng ngay lập tức 30% kể từ đáy 1921, lạm phát vẫn giữ mức cao (140%/năm) nhưng đã giảm gia tốc tăng.

Xuyên suốt từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1922, các tín hiệu tích cực và tiêu cực về thoả thuận giãn hoãn nợ đan xen nhau làm cho đồng mark biến động với biên độ rất rộng.

ree

(07/06/2025)

Siêu lạm phát (06/1922 - 12/1922)

3 lý da dẫn đến sự sụp đổ của thoả thuận giãn hoãn nợ kéo theo sự sụp đổ của đồng mark:

  1. Pháp từ chối thoả thuận giãn hoãn nợ và sẵn sàng chiếm đóng các mỏ than của Đức Ruhr.

  2. Pháp từ chối các chương trình hỗ trợ kinh tế cho Đức đã được khởi xưởng bởi Mỹ, dẫn đầu là JP Morgan.

  3. Ngoại trưởng Walter Rathenau bị ám sát bởi các tổ chức cánh hữu, người duy nhất khả năng đàm phán về các thoả thuận giảm nợ cho Đức.

Trong bối cảnh 1/3 tài sản ở các ngân hàng của Đức đều thuộc về các nhà đầu cơ nước ngoài, tiền bị rút ra khỏi Đức nhanh chóng, đồng mark sụp đổ ngay lập tức, siêu lạm phát bắt đầu.

Để cứu vãn tình hình, cung tiền được tăng lên 10 lần nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền của người dân.

ree

Cho đến đầu tháng 08/1922, lạm phát đã tăng 50% mỗi tháng, các nhà làm chính sách biết rằng họ đã bước vào vòng xoáy siêu lạm phát, nhưng họ không còn cách nào khác ngoài duy trì việc in tiền nhằm ngăn cản một sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống tài chính cùng tất cả các hoạt động thương mại.

Đối với Đức tại thời điểm đó mà nói, ngừng in tiền chính là lời mời Pháp vào chiếm đóng lãnh thổ của mình, vì vậy, in tiền chính là giải pháp ít đau đớn nhất.

Tiền và tín dụng đóng 2 vai trò: 1. Medium of exchange: Lạm phát cao gây khó khăn cho các hoạt động thương mại, đồng ngoại tệ ban đầu được sử dụng trên các hợp đồng có thời hạn dài, dần dần thay thế đồng mark trong chức năng trung gian trao đổi hàng hoá. 2. Store hold of value: Lạm phát cao làm mất chức năng lưu trữ giá trị của đồng mark.

(09/06/2025)

Ruhr bị chiếm đóng (01/1923 - 08/1923)

Vào tháng 01 năm 1923, Pháp đã chiếm đóng vùng Rurh chứa 50% mỏ than của Đức sau khi nhận thấy Đức không thể trả nổi chiến phí. Phải nhập khẩu than làm cho nền kinh tế Đức gần như sụp đổ.

Đức bắt đầu phát hành giấy nợ bằng đồng USD nhằm mục đích neo tỷ giá hối đoái giữa đồng Mark và USD. Đồng mark nhờ vậy đã tăng giá hơn 50% trong 3 tháng, nhưng sau khi nhận ra Đức không thể có dự trữ USD đủ để trang trải các khoản nợ trên, lạm phát quay trở lại mạnh mẽ, đạt 36,000,000,000% vào tháng 11/1923.

Toàn bộ đồng mark của kinh tế Đức vào năm 1913 chỉ có thể mua được 1 ổ bánh mì lúa mạch đen vào năm 1923.

(10/06/2025)

Siêu lạm phát kết thúc (1923 - 1924)

Nhận ra Đức sẽ phá sản nếu không được hỗ trợ, các nước đồng minh đã nối lại bàn đàm phán giãn hoãn nợ vào năm 1923.

Các nhà làm chính sách ở Đức đã thực hiện 5 bước đi quan trọng để kiểm soát lạm phát:


1. Đàm phán giãn hoãn nợ chiến tranh về ngang mức 1% GDP.

Tín hiệu tích cực đầu tiên đến từ sự nhượng bộ của Pháp do những áp lực của các ông trùm tư bản ở Ruhr.

Tháng 11/1923, Pháp và Anh đã thành lập Uỷ Ban Dawes nhằm xem xét giãn hoãn nợ cho Đức, ít nhất là hoãn tạm thời cho đến khi Uỷ Ban có quyết định cuối cùng. Sau 10 tháng không phải trả đồng nào cho các nước đồng minh, đến tháng 08/1924, Kế Hoạch Dawes được thực thi, theo đó các khoản nợ chỉ tương đương 1% GNP 1924 - 1925 của Đức (giảm hơn 90% so với 1923)

ree

2. Phát hành đồng Rentenmark thay cho đồng Mark

Đến năm 1922, hầu hết các hoạt động kinh tế của Đức đều sử dụng đồng USD, Francs, Florins hoặc bất cứ đồng nào trong 2000 đồng tiền bất hợp pháp được người dân nghĩ ra tại các địa phương để thực hiện các giao dịch - ngoại trừ đồng Mark.

Ngân hàng trung ương mới Rentenbank đã phát hành đồng rentenmark có giá trị quy đổi 1 rentenmark = 1000 tỷ mark, 4.2 rentenmark = 1 USD.

Đồng rentenmark được đảm bảo bằng 5% tổng sản lượng nông nghiệp và công nghiệp của Đức.


3. Giới hạn chặt chẽ cung tiền

Sau 1 năm tương đối ổn định, các nhà làm chính sách ở Đức tiếp tục phát hành đồng reichsmark với tỷ lệ quy đổi 1:1 so với đồng. rentenmark, nhưng đồng reichsmark được đảm bảo bằng vàng tại ngân hàng trung ương Đức - Reichsbank. Tỷ lệ quy đổi vàng tương đương với đồng mark thời trước chiến tranh.

Tuy nhiên do chưa có nhiều tài sản, khoản nợ được gắn với đồng tiền mới, nên NHTW vẫn chưa thể sử dụng đồng tiền này để đưa ra các quyết định điều tiết nền kinh tế bằng việc bơm hút tiền (tăng / giảm cung tiền, tạo lạm phát / giảm phát các khoản nợ, tăng / giảm áp lực gánh nặng nợ)


4. Ngừng in tiền

Có 2 thông báo nội bộ và chính thức về việc ngừng in tiền tài trợ cho các khoản nợ chính phủ:

  1. Tháng 8 / 1923: NHTW Đức phát thông báo chính thức đến Chính Phủ Đức rằng ngân hàng sẽ ngừng in tiền phục vụ mục đích nợ công. Chính phủ buộc phải tái cấu trúc lại chính sách tài khoá.

  2. Tháng 10 / 1923: NHTW Đức thông báo ngân hàng Rentenbank chỉ đảm bảo 1.2 tỷ rentenmarks tín dụng của chính phủ. Tất cả các khoản nợ của chính phủ sau đó đều sẽ không được tài trợ.

Đến tháng 12/1923, chính phủ đã bị NHTW từ chối yêu cầu được bơm thêm 400 triệu rentenmark, đánh dấu kỷ nguyên độc lập của NHTW.


(2025.06.16)

5. Chấm dứt thâm hụt ngân sách

Việc chính phủ tìm kiếm nguồn tài trợ ngân sách từ các tổ chức tài chính khác ngoài NHTW là bất khả thi, họ chỉ có lựa chọn duy nhất đó là cân bằng lại thu/chi. Điều này là hoàn toàn khả thi trong bối cảnh nợ chiến tranh đã được giảm mạnh.

Chính phủ đã mạnh tay cắt giảm 25% nhân sự và giảm 30% lương của những nhân sự còn lại cùng với rất nhiều sự cắt giảm đau đớn khác.

Lạm phát giảm và tỷ giá hối đoái đồng nội tệ ổn định là những nhân tố quan trọng giúp chính phủ Đức đạt được thặng dư ngân sách vào năm 1924.


6. Thu hẹp cung tiền

Thu hẹp bằng 2 kênh chính:

  1. Tháng 2 / 1924, chính phủ thông báo sẽ tái định giá các tài sản nợ bao gồm các khoản thế chấp, tiền gửi ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp,... những thứ hầu như không có giá trị khi siêu lạm phát xảy ra. Việc này làm cho con nợ trở nên có giá trị hơn đối với chủ nợ và họ phải trả nhiều tiền hơn cho chủ nợ. Ngược lại với cắt giảm nợ có hiệu ứng nới lỏng cung tiền thì tái định giá nợ (tăng giá) có hiệu ứng thắt chặt.

  2. Tháng 04/1924, NHTW Đức đã đặt room giới hạn tín dụng cho khu vực tư nhân. Các khoản nợ không cần phải được trả ngay, nhưng nếu muốn vay nợ mới, thì doanh nghiệp phải trả nợ cũ. Điều này gây khó khăn trong ngắn hạn cho doanh nghiệp nhưng lại giúp thắt chặt tín dụng làm ổn định lạm phát.


7. Gia tăng dự trữ ngoại hối

Đồng rentenmark đã lấy lại niềm tin của người dân Đức, họ tự tin rút ngoại tệ về để mua bill bằng đồng rentenmark giúp củng cố dự trữ ngoại hối của Đức.

Kế hoạch Dawes ngoài việc giảm nợ chiến tranh của Đức còn củng cố uy tín giúp Đức có thể tiếp cận các gói vay ngoại tệ. Việc này còn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rót tiền vào Đức vì lợi suất hấp dẫn.


Năm 1924, khủng hoảng gần như đã kết thúc, nước Đức tiến vào một giai đoạn ổn định và phục hồi cho đến khi Đại Khủng Hoảng xảy ra.

Đợt khủng hoảng này không chỉ tàn phá nền kinh tế Đức mà còn là động lực phát triển của các bè phái chính trị cánh hữu (Hitler) - right wing cũng như dân tuý cánh tả - left wing populist

Đặc điểm

KPD (Left-wing populist)

NSDAP (Right-wing populist)

Tư tưởng chính trị

Cộng sản, vô sản, cách mạng xã hội

Dân tộc chủ nghĩa, phát xít, chống cộng

Thủ phạm bị đổ lỗi

Tư bản, giới giàu, chính phủ

Do Thái, giới trí thức, cộng sản, Versailles

Mục tiêu

Cách mạng vô sản, công hữu hóa

Đế quốc hóa, mở rộng lãnh thổ, "làm Đức vĩ đại"

Dân túy

Đấu tranh cho công nhân, bài tư bản toàn diện

Đấu tranh cho “người Đức chân chính”, bài ngoại

Cơ sở ủng hộ

Giai cấp lao động, người nghèo đô thị

Tầng lớp trung lưu bất mãn, cựu binh, nông dân


Related Posts

Comments

Share Your ThoughtsBe the first to write a comment.
bottom of page