top of page
Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 4. Sai sót - Sự ảo tưởng về thông tin hoàn hảo

Sep 30, 2024

13 min read

0

29

0

Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 4. Sai sót - Sự ảo tưởng về thông tin hoàn hảo
Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 4. Sai sót - Sự ảo tưởng về thông tin hoàn hảo

(30/09/2024)

Thánh Augustine đã nói một câu rất nổi tiếng: Mắc lỗi là con người, duy trì lỗi là thảm hoạ, theo đó toàn bộ lịch sử con người đều là đang cố gắng để sữa chữa sai lầm của Adam và Eve. Bộ máy công quyền thì rõ ràng là có quá nhiều sai sót ai cũng có thể dễ dàng nhận ra.

Trong thế kỷ 21, AI đang được kỳ vọng để tạo ra một cơ chế tự động sữa chữa sai sót một cách hoàn hảo. Nhưng trước thế kỷ 21, con người cũng đã có một hệ thống tương tự như vậy: Đó chính là tôn giáo.

Taking humans out of the loop - Loại bỏ con người ra khỏi cuộc chơi

Trong suốt lịch sử của loài người, rất nhiều người đã tự nhận rằng mình đã được ban truyền những lời răn dạy của chúa. Nhưng trong 1 tôn giáo, Ngài lại truyền tin cho nhiều người khác nhau với những nội dung không giống nhau, chưa kể hình dáng của Người thay đổi tuỳ vào trí tưởng tượng còn nội dung được mật truyền thì phụ thuộc vào tính sáng tạo của những người nhận tin.

Tôn giáo muốn loại bỏ con người ra khỏi cuộc chơi này và tìm cách để mọi người đều có thể bình đằng tiếp cận với những lời răn dạy bởi một đấng toàn năng hoàn hảo (không sai sót).

Họ tạo ra những đơn vị trung gian như những hội đồng tôn giáo gồm nhiều tu sĩ đức cao vọng trọng để đảm bảo rằng những lời mật truyền được nhất quán trước khi ban xuống cho người dân.

Nhưng dù như thế nào đi chăng nữa, các đơn vị này vẫn có sự đóng góp của con người và những sai sót của họ.


The infallible techology - Công nghệ hoàn hảo

Những quyển kinh thánh chính là công nghệ hoàn hảo được tạo ra để bỏ qua sự tham gia của con người vào mạng lưới thông tin của tôn giáo.

Khi một câu chuyện thần thoại được kể đi kể lại bởi nhiều người, ở nhiều nơi tại nhiều thời điểm khác nhau thì dần dần nội dung sẽ bị thay đổi ít nhiều. Hệ thống hồ sơ công quyền thì lưu trữ thông tin rất chính xác nhưng không thể có đủ nhiều bản sao để tiếp cận đến số đông. Sách thì có thể đảm bảo nhiều người có thể truy cập vào cùng một thông tin ở những thời gian và địa điểm khác nhau.

Nhưng sách vẫn có những khiếm khuyết, vì ấn bản đầu tiên của nó không phải từ trên trời rơi xuống và có vẻ nó không được soạn thảo bởi những người thông minh nhất, uyên bác nhất và đáng tin cậy nhất.


The making of the Hebrew bible - Quá trình soạn thảo kinh thánh của người Do Thái

Có rất nhiều sự kiện, nhiều câu chuyện đã xảy ra trong kinh thánh, nhưng những người sống trong thời kỳ của kinh thánh chắc chắn chưa bao giờ đọc kinh thánh - đặc biệt là dưới dạng một quyển sách.

Ngày nay, hầu hết người Do Thái đều cho rằng Chúa đã tự tay đưa cho Mose ở núi Sinai quyển kinh thánh đầu tiên - kinh Torah. Các học giả Do Thái giáo còn đưa ra luận điểm rằng chúa đã ban truyền kinh Torah vào mỗi buổi bình minh để đảm bảo rằng Noah hay Adam và Eve đều có thể tiếp thu được những điều răn của kinh thánh trước cả khi các quyển kinh đầu tiên được xuất bản.

Sự thật là kinh thánh hiện tại chính là tác phẩm của nỗ lực biên, phiên dịch và tranh cãi trong nhiều ngàn năm của các học giả trong các tu viện, ấn bản cuối cùng được thống nhân và niêm phong với kỳ vọng rằng tất cả những người Do Thái đều có thể truy cập một cách chính xác và đồng nhất về từng lời (từ) của Jehovah, không có một con người trần tục nào có quyền được xoá bỏ và chỉnh sửa nữa.

Điều này có tác dụng:

  1. Dân chủ hoá quyền truy cập các văn bản tôn giáo cho toàn dân. Duy trì trật tự và ngăn ngừa rủi ro tập trung quyền lực vào một cá thể con người - chủ nghĩa độc tài/chuyên chế.

  2. Quan trọng hơn, những bản sao của kinh thánh lưu hành rộng khắp sẽ đảm bảo các nỗ lực chỉnh sửa kinh thánh chỉ như muối bỏ bể. Trật tự xã hội được duy trì nhờ một mạng lưới công nghệ thông tin hoàn hảo - không có sai sót.


The institution strikes back - Những cuộc phản công của các chủng viện

Nói như vậy nhưng thật ra việc duy trì việc xuất bản kinh thánh ở những vùng đất có khoảng cách địa lý quá xa so với Jerusalem gây ra một khó khăn rất lớn trong việc đảm bảo các bản in đều không có sai sót do cố ý hay vô ý.

Chưa kể việc giảng giải nghĩa của từng từ trong kinh thánh ở nhiều ngôn ngữ khác nhau còn phiền toái hơn. Kinh thánh nói rằng không được "làm việc" trong ngày Sabbath, nhưng nó không nói hoạt động nào có nghĩa là "việc". Các rabbi - học giả Do Thái giáo cho quy định rằng đọc sách thì không phải là "việc", nhưng xé giấy lại là "việc", vì vậy giấy toilet phải được xé trước ngày Sabbath.

Để có thể áp dụng những luật lệ cũ kỹ trong một thế giới mới mẻ, họ lại tiếp tục "ban hành" thêm kinh Mishnah vào thế kỷ thứ III. Đến thế kỷ thứ VI, kinh Talmud lại được ban hành để giải nghĩa Mishnah.

Ước mơ loại bỏ con người ra khỏi hệ thống giáo lý tôn giáo cứ như vậy, mãi mãi không thể trở thành sự thật. Mỗi một lần tái bản và ban hành mới, quyền lực của các chủng viện ngày một lớn hơn vì họ có quyền quyết định rằng bạn không được bấm nút khi sử dụng thang máy vào ngày Sabbath vì đó chính là "công việc", người Do Thái đã phải sáng tạo ra thang máy không có nút bấm để tránh phải đi bộ nhiều tầng lầu trong ngày lễ trọng đại này.

Cứ như vậy, chữ trong những quyển sách bỗng nhiên trở thành sự thật, còn sự thật thì phải oằn mình cho vừa vặn với từng câu chữ trong sách.


(01/10/2024)

The split bible - Sự chia rẽ trong kinh thánh

Không thể có chuyện các học giả Do Thái hoàn toàn đồng tình với nhau về việc giải nghĩa các từ ngữ của kinh thánh. Những người phản đối đã bác bỏ sự tồn tại của 2 quyền kinh Mishnah và Talmud, họ chính là Thiên Chúa Giáo.

Vào thế kỷ thứ I, Thiên Chúa Giáo chưa phải là một tôn giáo thống nhất, họ tôn thời Jesus Christ thay vì nghe lời giải nghĩa những lời răn dạy của Jehova từ những học giả Do Thái giáo. Họ đã viết ra Kinh Tân Ước để thay thế cho Mishnah và Talmud.

Tương tự, kinh Tân Ước cũng chỉ là sự tổng hợp của rất nhiều những lá thư của những vị thánh Peter, James, Abraham, Matthew, Mark, Luke, John, Mary, Truth, Savior, Jude, Khải Huyền,... xuất hiện sau thời của Jesus. Những nhà thờ khác nhau, ở các giáo phận khác nhau và có những người Cha với tư tưởng khác nhau lại lựa chọn một danh sách các lá thư cấu thành kinh Tân Ước khác nhau.

Thư của Timothy bác bỏ vai trò của phụ nữ đã được lựa chọn rất nhiều trong thế kỷ I, nhưng thư của Pauls & Thecla đề cao vai trò của phụ nữ bắt đầu phổ biến vào các thế kỷ II, III, IV. Trong khi 2 lá thư gần như được viết vào cùng một thời điểm. Và những quyền Kinh Tân Ước khác nhau đã đóng vai trò quyết định trong việc định hướng thái độ của xã hội đối với người phụ nữ, kể cả cho đến thời nay.

Tương tự như Do Thái Giáo, người theo Thiên Chúa Giáo cũng quên rằng các quyền kinh đều có bàn tay con người nhào nhặn ở đằng sau, hoặc ít nhất là tuân theo ý chí của một nhóm con người, họ lại tin tưởng rằng Tân Ước và Cựu Ước đều là những lời của Chúa. Như vậy, những nỗ lực để loại bỏ con người ra khỏi giáo lý tôn giáo lại cuối cùng tạo ra những con người quyền lực - họ sống trong các nhà thờ.


The echo chamber - Ám chỉ căn phòng mà người bên trong chỉ nghe và tiếp nhận được những thông tin vang vọng bên trong phòng, không chấp nhận thông tin bên ngoài.

Học giả người pháp Jacques Fournier đã viết lại cách thức các nhà thờ vào thế kỷ XII đã chống lại sự truyền bá của dị giáo. Bằng việc kiểm soát hoàn toàn quá trình xuất bản sách, họ sử dụng quyền lực và của cải để đè bẹp dị giáo và truyền bá những quyển kinh đã được chắt lọc mang các tư tưởng có lợi cho họ. Đó là cách những lời của Chúa bị uốn nắn bởi con người được truyền bá mà mọi người phải răm rắp nghe theo và tuyệt nhiên không được đặt một dấu chấm hỏi nào, ở bất cứ vị trí nào trong các quyển kinh.


(02/10/2024)

Print, science, and witches - In ấn, khoa học và các mụ phù thuỷ

Kỹ thuật in ấn con chữ rời vào thế kỷ XV đã mang quyền xuất bản sách vào tay người dân, trong 46 năm từ 1454 đến 1500, đã có 12 triệu sách được in tại Châu Âu, nhiều hơn tất cả sách đã được chép tay trong hơn 1000 năm trước đó - 11 triệu sách.

Nhiều thông tin được tự do truyền bá đã được cho rằng, chính là tiền đề cho cách mạng khoa học. Nhưng bên cạnh khoa học, các thông tin giả mạo, dị giáo, đặc biệt là những thông tin về phù thuỷ cũng bắt đầu được lan tryền tràn lan, gây ra những cái chết tàn khốc cho những người dân thường vô tội.


The Spanish inquisition to the rescue

Những nguồn thông tin vô tận về việc săn bắt các phủ thuỷ cũng như việc diễn giải kinh Talmud và Tân Ước, chúng không phải là các hiện thực khách quan, chúng chỉ tồn tại một cách liên chủ quan khi con người trao đổi thông tin với nhau.

Những nhà săn bắt chuyên nghiệp còn bắt đầu kiếm được bộn tiền nhờ việc chào mời chính phủ những dịch vụ săn bắt phù thuỷ.

Những nguồn thông tin vô tận về thói quen, tập quán của những phù thuỷ, cách thu phục và giết chúng bắt đầu được soạn thảo. Quan trọng hơn cả là những lời khai của các mụ phù thuỷ được điền trong những biểu mẫu có đóng mộc và chữ ký của chính phủ nằm chễm chệ trên kệ hồ sơ của bộ máy công quyền, trong thư viện. Các hồ sơ này xếp ngang hàng với các hồ sơ về quyền sơ hữu đất đai, hồ sơ thuế má và giấy khai sinh của người dân.

Và sự thật là, rất nhiều tài nguyên đã được sử dụng để không mạng lại một chút sự thật và tri thức nào.

Học giả người Tây Ban Nha Frias đã nghiên cứu toàn diện về các cuộc săn bắt phù thuỷ vào thế kỷ XVII, ông cho rằng ông đã không thể tìm thấy bất cứ một bằng chứng dù là nhỏ nhất nào cho thấy rằng đã từng có một mụ phù thuỷ nào thi triển phép thuật hắc ám, và không hề có một phù thuỷ nào thực sự tồn tại ngoài thực tế ngoại trừ trên các trang hồ sơ.

Đó là một ví dụ kinh điển cho thấy rằng kỹ thuật in ấn và một thị trường tự do của thông tin không thể giúp sự thật sáng tỏ hơn hay con người thông tuệ hơn tạo tiền đề cho cách mạng khoa học, mà ngược lại chúng còn tạo ra vô số nguồn thông tin chính thống nhưng lệch lạc.


(04/10/2024)

The discovery of ignorance - Tìm ra sự ngu dốt

Kỹ thuật in ấn và ví dụ về việc săn bắt phù thuỷ rõ ràng có thấy rằng một thị trường thông tin tự do là không thể giúp con người sữa chữa những sai sót trong thông tin bời vì nó có thiên hướng ưu tiên cảm xúc của con người hơn là sự thật về thế giới.

Để ưu tiên sự thật, cần phải có các học viện hàn lâm có đủ quyền lực để đưa cán cân về phía của sự thật, tuy nhiên trong lịch sử, các viện tôn giáo lại sử dụng quyền lực của mình để kiềm hãm các thế lực thù địch - mang những góc nhìn khác và hoàn toàn chính xác về sự thật.

Các viện khoa học hàn lâm bắt đầu xuất hiện vào cuối TK XVII ở Châu Âu, chúng khác biệt ở chỗ, người viết không đặt câu hỏi về việc họ kiếm được bao nhiêu tiền, quyền, danh vọng từ bài viết của họ, mà họ đặt câu hỏi về các bằng chứng nào tạo nền tảng khoa học cho bài viết. Đó là lý do các viện khoa học hàn lâm này trông có vẻ rất mỏng manh và yếu ớt, vì họ thiếu quyền năng để tái cấu trúc lại xã hội. Họ không thể giết một mụ phù thuỷ độc ác, hay trừng phạt những kẻ dị giáo.

Nhưng họ vẫn phát triển được nhờ vào cơ chế tự rà soát và sữa lỗi của mình, tạo tiền đề cho cách mạng công nghiệp. Nói cách khác, cách mạng khoa học được khởi động bởi cơ chế tìm ra sự sai sót. Họ không có các bộ kinh thánh mang lời dạy "luôn đúng" của Chúa, mà chấp nhận sự sai sót của các bộ óc thiên tài của Copernicus, Darwin và Einstein,... Nhưng sai lầm của họ có thể được tìm ra bởi chính bản thân họ, bởi các thành viên trong các viện khoa học hàn lâm, hay bởi bất cứ một người dân thường nào. Đó là một cơ chế phát triển vĩnh cửu.


Self-correcting mechanisms - Cơ chế tự sửa chữa sai lầm

Kinh thánh thì luôn luôn đúng, khoa học thì khuyến khích tìm ra sai lầm, đó chính xác là 2 cực đối lập nhau. Học sinh không tự sửa bài luận của mình, phạm nhân không thể tự bào chữa cho mình, phát xít Đức không tự lụi tàn nếu không bị quân đồng minh đánh bại. Nhưng một bài báo khoa học mới có thể sửa lỗi nhưng bài báo khoa học trước đó, đó chính là cơ chế tự chỉnh sửa của khoa học.

Đứa trẻ tự học đi, té ngã và tự học cách cân bằng, không ai có thể dạy được cho chúng. Cơ thể của chúng ta phát hiện sai sót và điều chỉnh lượng đường trong máu cho phù hợp với các điều kiện hoạt động của cơ thể. Cũng như khoa học, các cơ chế trên không cố gắng loại bỏ bản thân ra khỏi quá trình phát triển, mà chúng phát triển dựa vào chấp nhận sự sai sót và mất cân bằng của bản thân cơ chế đó.

Tôn giáo thì không bao giờ nói rằng: "Các chuyên gia của chúng tôi đã phát hiện ra một lỗi trong kinh thánh, chúng tôi sẽ phát hành một phiên bản kinh thánh vá lỗi mới". Trong tương lai, nếu một đức giám mục nào đứng ra xin lỗi về những gì họ đã làm đối với cộng đồng LGBT, họ sẽ đổ lỗi lên vai những cá nhân đã quá khích và hiểu sai về Kinh Phúc Âm.

Tôn giáo bị lọt vào cái bẫy của thông tin hoàn hảo (không có sai sót).


The DSM and the Bible - Cẩm nang chẩn đoán và thống kê chứng rối loạn tâm thần và Kinh Thánh

Khoảnh khắc vào thế kỷ 20, khoảnh khắc mà thuyết tương đối bẻ gãy lý thuyết về vật lý Newton, chính là khoảnh khắc hạnh phúc nhất khi tri thức được hé lộ cùng với những lý thuyết mới ra đời.

Tương tự, quyển Kinh Thánh của các nhà tâm lý học - DSM - Cẩm nang chẩn đoán và thống kê chứng rối loạn tâm thần đã xuất bản năm 1952 và trong tái bản 1974 đã không xem sự đồng tính là rối loạn nhân cách nữa, chỉ mất hơn 20 năm để các nhà khoa học sửa một lỗi mà có thể các quyền Kinh Thánh chính thống sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi.

 Ân bản thứ 5 của quyền sách đã tái bản vào năm 2013, và quyển DSM vẫn sẽ luôn được cập nhật mỗi vài chục năm, vì các nhà tâm lý học biết rất rõ rằng không thể có một quyển sách hoàn hảo.


Publish or Perish - Công bố hoặc chết

Khi bạn là thành viên của một tôn giáo, bạn được khuyến khích nên tin tưởng những giáo luật và tránh xa những dị giáo. Bạn sẽ trở thành những rabbi (học giả Do Thái), những imam (giáo sĩ Islam), những linh mục (Công Giáo) khi bạn trung thành với giáo thuyết, và để leo cao hơn trong con đường tu hành, bạn phải thề sẽ không bao giờ chống lại các giáo thuyết cổ xưa của tổ tiên.

Hoàn toàn ngược lại, trong khoa học, để leo lên cao, bạn phải công bố các bài viết khoa học của mình bằng cách sáng tạo ra lý thuyết mới hay bẻ gãy hoặc ít nhất là tìm ra được các sai lầm của những bài báo khoa học trước đó. Không ai đoạt giải Nobel nhờ vào việc lặp lại và tin tưởng những nguyên cứu khoa học cũ.


The limits of self-correction - Những giới hạn của cơ chế tự sửa chữa

Cái giá phải trả của cơ chế tự sửa chữa đó là những sự nghi ngờ, bất đồng, mâu thuẫn và làm giảm vai trò của những thần thoại, tôn giáo và hệ tư tưởng đã giúp giữ gìn trật tự xã hội.

Ngược lại, duy trì trật tự bằng cách ngu dân thì cái trật tự đó cũng không thể bền vững được. Đó chính là lý do đôi lúc phải đánh đối sự thật để đạt được trật tự và những lúc khác phải đánh đổi 1 chút trật tự để sự thật được hé lộ.

Khoa học đã phát triển rực rỡ được như ngày hôm nay bởi vì họ không phải bận tâm về trật tự xã hội. Nếu có trộm vào nhà thì các nhà khoa học sẽ phải ngừng viết báo khoa học để gọi cho công an - bộ phận duy trì trật tự xã hội.

Có một hệ thống tự sửa chữa thông tin nào có thể vận hành mà vẫn có thể duy trì được trật tự xã hội hay không? Chúng ta sẽ tìm hiểu về khía cạnh chính trí của dòng chảy thông tin và lịch sử của nền dân chủ và độc tài trong chương tiếp theo.


Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 4. Sai sót - Sự ảo tưởng về thông tin hoàn hảo

by Hieuletrung

Related Posts

Comments

Share Your ThoughtsBe the first to write a comment.
bottom of page