top of page
Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 5. Lược sử nền dân chủ và chủ nghĩa toàn trị

Oct 5, 2024

22 min read

0

22

0

Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 5. Lược sử nền dân chủ và chủ nghĩa toàn trị
Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 5. Lược sử nền dân chủ và chủ nghĩa toàn trị

(05/10/2024)

Dân chủ (democracy) và độc tài (dictatorship) thường được xem là đối ngược nhau về cả chính sách lẫn hệ thống đạo đức, bằng cách nhìn lại lịch sử phát triển và phân tích dòng chảy của thông tin trong 2 hệ thống xã hội này, ta sẽ thấy được cách các công nghệ thông tin khác nhau sẽ tác động đến sự phát triển của xã hội.

Thông tin được chảy một cách tập trung trong chế độ độc tài. Có nghĩa là:

  1. Chính phủ có quyền lực không giới hạn khi thông tin chảy về một trung tâm dữ liệu, tất cả các quyểt định đều được ban hành tại đây để kiểm soát hoàn toàn cuộc sống của người dân. Chế độ độc tài Hitler và Stalin thì được xem là chủ nghĩa toàn trị (totalitarianism), nhưng chế độ độc tài Nero (Roman) thì vẫn tồn tại sự tự do như một phụ phẩm của một chế độ toàn trị thất bại.

  2. Chính phủ không bao giờ sai. Bất cứ ai chống đối, đều được xem là các phẩn tử cực đoan. Nhà lãnh đạo có phạm sai lầm thì cũng không có cơ chế tự sửa chữa nào.

Ngược lại, dân chủ thì có mạng lưới thông tin phi tập trung với một cơ chế tự sửa lỗi mạnh mẽ. Thông tin vẫn tập trung về cho chính phủ, tuy nhiên nhiều luồng (nốt - node) thông tin độc lập khác cũng được thu thập qua nhiều kênh khác nhau. Sự tự do (autonomy) là cốt lõi của dân chủ, không phải là hệ quả của việc mất kiểm soát xã hội.

Chính phủ tập trung sẽ kiểm soát và ra quyết định ít nhất có thể, và các quyết định này đều phải tuân theo mong muốn của đa số người dân. Nó khác biệ với tình trạng vô chính phủ (anarchy) khi chính phủ hoàn toàn không/mất kiểm soát xã hội.


Majority dictatorship - Nền độc tài của số đông

Bầu cử là công cụ trung tâm của dân chủ, nhưng việc bầu cử không tạo nên nền dân chủ. Nếu không có cơ chế tự sửa chữa sai lầm, sẽ không bao giờ tồn tại các cuộc bầu cử minh bách, mà kể cả khi có các cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó cũng không đảm bảo tạo nên một nền dân chủ. Dân chủ không phải là nền độc tài của số đông.

Số đông có thể quyết định hầu hết tất cả những chính sách từ giáo dục, thuế má, chiến tranh,... nhưng họ ko thể bỏ tù những người thiểu số. Bởi vì có 2 nhóm quyền lợi mà người dân luôn luôn luôn sở hữu: Quyền bầu cử để định đoạt và quyền tự do ngôn luận để công kích nhóm lãnh đạo.


Con người và sự thật

Có rất nhiều những tranh cãi xoay quanh quyền và giới hạn của quyền con người. Ai có quyền chấm dứt sự sống của một con người, quyền tự do tín ngưỡng, quyền truy cập internet có phải quyền cơ bản của con người không? Quyền của động vật thì sao? AI có quyền không?

Những câu hỏi trên đều không có câu trả lời bởi vì chúng là các thực tại liên chủ quan mà con người sáng tạo. Vì vậy, cộng đồng khác nhau với sự đồng điều về các khái niệm liên chủ quan khác nhau thì sẽ có các câu trả lời khác nhau cho các câu hỏi trên.

Nhưng ít nhất các chế độ được gọi là dân chủ sẽ có một điểm chung cơ bản nhất đó là họ chấp nhận nhà cầm quyền có thể phạm sai lầm và các quyền cơ bản của công dân chính là phương thức để sửa chữa sai lầm đó.

Bỏ phiếu không phải là phương thức để tìm kiếm sự thật, chúng là phương thức để duy trì trật tự thông qua sự mâu thuẫn trong mong muốn của người dân. Kết quả bỏ phiếu thể hiện mong muốn của số đông, chứ không thể hiện sự thật và mấu chốt là: con người mưu cầu sự thật chứ không mưu cầu tìm kiếm sự thật.

Ví dụ: vào những năm 2002-2003, chính quyền tổng thống Bush đã xác nhận rằng Irag đang phát triển vũ khí huỷ diệt hàng loạt, 72% người dân Mỹ đồng ý xuất quân đánh chiếm Irag là một sự thật rõ ràng rằng đa số người Mỹ muốn làm điều đó.

Đến năm 2004, không có một vũ khí huỷ diệt nào được tìm thấy cả, 67% lá phiếu của người dân cho rằng Mỹ đã sai lầm trong cuộc chiến chống Irag vì các thông tin không chính xác. Họ nhận ra họ đã sai lầm và bỏ phiếu chính là cơ chế sữa chữa sai lầm của họ.

Tương tự, khi một thủ lĩnh nào đó bị án tử, những người ủng hộ có quyền cho rằng bản án đó là sai, nhưng không ai có quyền cấm hay can thiệp vào quá trình điều tra của toà án. Có thể đại đa số người dân không tin rằng Trái Đất đang nóng dần lên, nhưng họ không thể ngăn cản các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và chứng minh điều đó, và khi luận cứ đã đủ vững mạnh để đảo ngược lại mưu cầu của đa số, thì điều đúng đắn sẽ được thực thi.

Và kể cả khi số đông đã chấp nhận rằng Trái Đất đang nóng dần lên, thì số đông vẫn có quyền lực chọn giữa 2 phương án. (1) Cắt giảm các hoạt động gây hiệu ứng nhà kinh, chấp nhận một cuộc sống khó khăn hơn vì một Trái Đất mai sau. (2) Tiếp tục phát triển kinh tế và khai thác nhiên liệu hoá thạch mà không quan tâm đến thế hệ tương lai.

Quyết định đó không thể được đặt vào tay của các khoa học gia uyên bác hay các chính trị gia đáng kính.

Nhưng có một điều mà nền dân chủ - các lá phiếu không thể làm, đó là bóp méo sự thật về việc Trái Đất nóng dần lên. Việc này thông qua 2 cách:

  1. Các viện khoa học đã có sẵn cơ chế tự sửa chữa sai lầm (đã đề cập ở chương trước): Giúp liên tục nghiên cứu và tìm ra sự thật.

    Tự do ngôn luận - tự do báo chí: nếu thông tin không thể chảy tự do một số kênh ngôn luận bị kiểm soát chính trị, thì các kênh khác sẽ phanh phui sự thật.

  2. Các viện nghiên cứu khoa học độc lập khác: Khi một viện khoa học bị kiểm soát, báo chí bị bưng bít và toà án bị giật dây, thì các nhà sử học, xã hội học, và triết học sẽ không bao giờ ngôi yên để nhìn lịch sử, xã hội và nền tảng triết học của một quốc gia bị vấy bẩn.


The populist asault - Sát thủ dân tuý

Trong khi dân chủ cho rằng con người là nguồn gốc duy nhất của sức mạnh và xã hội không thể nào là một thể thống nhất vì vậy họ không thể nào chỉ có một mưu cầu và có một tiếng nói chung được, ám chỉ rằng số phiếu bầu không thể nào 100% nghiêng về một phía nào đó. Nếu có, tiếng nói chung đó sẽ là mệnh lệnh mà thường được dẫn dắt bởi một nhà lãnh đạo dân tuý, mầm mống của chế độ độc tài.

Ngoài ra, dân tuý còn cho rằng mình đại diện cho người dân, và người dân thì không phải chỉ là một chính thể thống nhất có quyền lực chính trị mà còn có quyền lực ở tất cả các khía cạnh khác. Từ đó dân tuý ngoài kiểm soát chính trị, họ còn muốn kiểm soát cả truyền thông, toà án, khoa học, viện trường,.. Đó là cách dân tuý đưa nền dân chủ trở thành một chế độ toàn trị.

Những lý thuyết dân chủ nghe rất phức tạp và nó vốn phức tạp, nó là những cuộc tranh cãi không hồi kết của các nhóm người mưu cầu những thứ khác nhau. Dân tuý lại thể hiện rất chân thật và dễ hiểu mưu cầu thực tế của con người thông qua các lãnh đạo độc tài đội lốt dân chủ rất biết truyền cảm hứng.

Dân tuý cũng rất có thể dẫn đến tình trang vô chính phủ khi người dân không còn tin tưởng gì vào sự thật và công lý nữa, họ không tin vào hệ thống công quyền, họ cho rằng kết quả bầu cử bị gian lận, toà án và báo chí bị thao túng, khi đó, nếu nhà lãnh đạo dân tuý - độc tài không thể duy trì một lý tưởng thần thánh thông qua một câu chuyện thần thoại nào đó, để duy trì trật tự, thì xã hội sẽ rơi vào chế độ vô chính phủ.


(06/10/2024)

Đo lượng sức mạnh của các nền dân chủ

Dân chủ và độc tài không phải là 2 thái cực trái ngược nhau mà đơn thuần chỉ là nằm ở các vị trí khác nhau trên cùng một phổ thước đo chung.

Nền độc tài nằm ở 1 vị trí trên phổ thước đo mà tại đó mọi quyết định được đưa ra bởi một người, không có sự đối thoại nào. Khi có một nhóm người bí mật trao đổi các ý tưởng chống đối nền độc tài của họ thì đó là hạt giống đầu tiên của nền dân chủ. Khi có 10% dân số đưa ra các ý kiến đối thoại của mình, bỏ phiếu công bằng, chạy đua vào các ghế lãnh đạo,... đó là một nền dân chủ sơ khởi (tương tự như Athens). Khi tỉ lệ dân số tham giao đối thoại ngày một tăng lên, nền dân chủ sẽ ngày một mạnh lên.

Như vậy dân chủ nằm ở các cuộc đối thoại chứ không phải ở các cuộc bầu cử. Câu hỏi tiếp theo cũng không kém phần quan trọng đó là: Các cuộc đối thoại được thực hiện ở đâu?

Ở Mỹ, hiện nay, bất cứ ai đều có thể gay gắt chỉ trích chính phủ, điều này xảy ra rất thường xuyên nhưng nó lại không nằm trong các cuộc nghị sự mang tính quyết sách mà tại thường ở các quảng trường, các phố đi bộ.

Người dân có thể tự do đối thoại, nhưng nền dân chủ vẫn có thể chết đi khi các đảng phái chính trị không thể đối thoại và thuyết phục lẫn nhau về các quan điểm về mưu cầu của người dân.


Stone age democracies - Các nền dân chủ sơ khai

Con người trong thời kỳ săn bắt hái lượm không có các cơ chế bầu cử, toà án, truyền thông nhưng thông tin vẫn có thể chảy một cách trơn tru trong nội bộ các nhóm người, và giữa các nhóm người trong một bộ lạc. Đơn giản vì quy mô của bộ lạc vẫn đủ nhỏ để đại đa số thành viên vẫn có thể thực hiện được quyền dân chủ của mình. Kể cả khi một lãnh đạo tối cao độc tài được lập nên, họ vẫn không thể kiểm soát hết cuộc sống của các thành viên được. Vì đồng cỏ thì rộng lớn, cuộc sống thời kỳ này phụ thuộc vào kỹ năng cá nhân và hành động theo nhóm nhỏ, các nhóm người này có thể cất bước ra đi bất cứ lúc nào khi họ cảm thấy không hài lòng với các nhà độc tài.


Trong các thiên niên kỷ tiếp theo, khi nông nghiệp phát triển, các thành bang được thành lập, 25-30% dân số Athens là nam giới đã trưởng thành sẽ có đặc quyền chính trị để thực hiện quyền dân chủ của mình. Kể cả khi Athens phát triền từ hệ thống thành bang thành một đế chế, với lãnh thổ rộng lớn hơn, đặc quyền chính trị vẫn chỉ giữ ở trong nội bộ Athens, tất cả thông tin đều chảy về Athens.

Trong khi đó, Cộng Hoà Roman thì lại cấp quyền chính trị cho các thuộc địa của mình, nền dân chủ vẫn phát triển mạnh mẽ thông qua các lá phiếu của cả người dân Roman và các thuộc địa. Cho đến thế kỷ III, dân số Roman đạt 10 triệu người, với quy mô dân số quá lớn, trải dài trên một lãnh thổ lởn với quá nhiều sự khác biệt về văn hoá, trong khi các quyết định chính trị đều được quyết định bởi một gia đình hoàng tộc. Cơ chế tự sửa lỗi của nền dân chủ dần bị thoái hoá khi mà đại đa số người dân ở các vùng thuộc địa xa xôi như Anh Hy Lạp, Ả Rập không thể đối thoại trực tiếp và thực hiện quyền dân chủ của mình.

Sau thế kỷ III, hầu hết các đế chế như Parthian (Iran), Ba Tư, Gupta (Ấn Độ), Kushan (Trung Á), Nhà Hán Trung Quốc đều theo chế độ quân chủ chuyên chuyên chế tập trung thông tin, thiếu đi cơ chế tự sửa chữa.


(07/10/2024)

Caesar for president

Có phải nền dân chủ quy mô lớn không thể hoạt động hiệu quả ở thế giới cổ đại? Chúng thất bại do các nhà lãnh đạo dân tuý hay là do các vấn đề căn bản của dân chủ?

Khi quy mô của đế chế ngày tăng lên, để duy trì các cuộc đối thoại dân chủ, việc cung cấp quyền tự do ngôn luận (Quyền nói) và duy trì khả năng đáp ứng (Khả năng nghe) của bộ máy dân chủ là không đủ. Có 2 điều kiện tiên quyết:

  1. Mọi người dủ ở khoảng cách nào đều phải nằm trong vùng phủ sóng để có thể nói và hấp thụ.

  2. Mọi người phải hiểu mình đang nói và đang nghe về điều gì. Người nghèo có rất nhiều đóng góp tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo hơn là các giáo sư, dân tộc thiểu số thì hiểu rất rõ về tình trạng phân biệt đối xử.

Nếu kinh nghiệm sống quyết định quá nhiều đến khả năng nói và nghe thì có vẻ một nền dân chủ trên quy mô dân số lớn là bất khả thi.

Khi đó để duy trì Quyền nói và Khả năng nghe trên quy mô lớn, nền giáo dục và truyền thông phải đóng một vai trò cao cả trong việc khiến một người có thể thấu hiểu được những thứ mà họ chưa từng phải trải qua.

Rõ ràng các nhà lãnh đạo độc tài/chuyên chế/dân tuý không làm cho nền dân chủ suy yếu đi, mà chính quy dân số quá lớn với thành phần dân số phức tạp đã không thể duy trì được Quyền nói và Khả năng nghe của nền dân chủ. Plato, Aristotle cũng cho rằng nền dân chủ chỉ hoạt động trên một chế độ thành-bang quy mô nhỏ.

Có thể nói, trước khi công nghệ truyền phát thông tin hiện đại được phát minh, tuyệt nhiên không có một nền dân chủ quy mô lớn nào tồn tại cả.


Mass media makes mass democracy possible - Truyền thông rộng thì dân chủ mạnh

Báo chí được xuất bản định kỳ chính là kênh truyền thông có khả năng tự sửa chữa sai sót thông qua các kỳ xuất bản và thông qua áp lực cạnh tranh giữa các tờ báo với nhau đã tạo được một môi trường truyền dẫn thông tin minh bạch. Những đầu báo đầu tiên xuất hiện tại Hà Lan vào đầu TK XVII, nó phát triển mạnh đến nỗi, các nhà báo dần trở thành các lãnh đạo chính trị quyền lực như Jean Paul Marat ở Pháp, Bernstein thành lập đảng dân chủ xã hội Đức, Vladimir Lenin lãnh đạo Soviet, Benito Mussolini lãnh đạo phát xít Ý,...

Họ đều có nguồn gốc từ việc làm chủ biên của các tờ báo trong nước.

Báo chí đã tạo ra một mạng lưới truyền thông để duy trì nền dân chủ ở các đế chế với quy mô dân số lớn hơn rất nhiều so với Roman hay Athens,...


(08/10/2024)

The twentieth century: Mass democracy, but also mass totalitarianism - Thế kỷ 20: phát triển mạnh mẽ của cả nền dân chủ và chủ nghĩa toàn trị

Báo chí chỉ mới là khởi đầu của thời đại truyền thông.

Thế kỷ tiếp theo, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, năm 1960, đã có 70 triệu người Mỹ (39% dân số) đã trực tiếp xem cuộc tranh cử trực tiếp giữa Nixon và Kennedy trên TV, vài triệu người khác thì đang nghe trên radio.

Nền dân chủ trên một quy mô dân số lớn đã được hiện thực hoá nhưng nó cũng mở cánh cửa cho sự phát triển của các chế độ toàn trị.


A brief history of totalitariansm - Lược sử chủ nghĩa toàn trị

Trong một nền độc tài, hoàn toàn không có giới hạn pháp lý cho mưu cầu của nhà lãnh đạo, nhưng lại có rất nhiều những giới hạn kỹ thuật mà ở một nền toàn trị, người ta có thể xử lý được.

Nhà độc tài Nero ở Roman đã thực hiện rất nhiều cuộc ám sát và trực tiếp giết hại rất nhiều người (có cả mẹ ruột và vợ của mình), những người mà ở rất gần với cuộc sống hằng ngày của ông. Trong khi đó, ông hầu như không giết một thần dân Roman nào mà sống ở một khoảng cách địa lý quá xa như Jerrusalem và Londinium trong khi họ lại có quyền tự do ngôn luận cao hơn so với người Roman ở thủ đô.

Nhà độc tài Stalinist của nền toàn trị Soviet thì kiếm soát mọi mặt đời sống, từ những gì người dân tiếp thu, suy nghĩ, cho đến những gì họ nói và hành động, bất kể họ ở một khoảng cách địa lý nào so với ông. Quyền năng này có thể chính là ước mơ của Nero, nhưng ông không thể làm được điều đó, như một khiếm khuyết kỹ thuật của nền độc tài.


Sparta and Qin - Đế chế Sparta ở Roman và nhà Tần ở Trung Quốc

Vẫn có những tranh cãi rằng Sparta chính là một nền toàn trị thành công trong thời cổ đại. Đúng là họ có một cơ chế tự sửa chữa sai lầm và để tránh tập trung quyền lực và một người đứng đầu thông qua cơ chế chính trị bao gồm 2 vị vua, hội đồng gồm 5 thẩm phán gọi là ephor, và 28 thành viên hội đồng. Nhưng Sparta không thể xây dựng được một hệ thống thông tin đủ rộng và dày đặc để kiểm soát cuộc sóng của tất cả nhưng người dân thường tại tất cả các con phố của Hy Lạp.

Thời nhà Nhà Tần ở Trung Quốc cũng thường được cho là một nền toàn trị khi Tần Thuỷ Hoàng đã thống nhất lãnh thổ Trung Quốc gồm rất nhiều những tộc người nói những ngôn ngữ và chữ viết khác nhau. Để giữ vững kỷ cương, ông đã loại bỏ hết các thế lực có nguy cơ ảnh hưởng đến nhà Tần, ép buộc các gia tộc này phải chuyển về ở gần kinh đô Tương Dương để dễ bề quản lý.

Ông cũng đã thực hiện tiêu chuẩn hoá tất cả các đơn vị đo lường, tiền tệ và chữ viết về tạo được sự tập trung và thống nhất và tương đồng trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ.

Nhưng vẫn không có một cơ chế nào để đảm bảo tất cả người dân đều phải tuân thủ các quy định trên, chưa kể là hầu hết các tiêu chuẩn được xác lập bởi triều đình đều bất khả thi đối với người dân, đặc biệt là đối với các vùng miền có văn hoá hoàn toàn khác biệt. Tất cả những áp đặt trên gây ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế, lãng phí tài nguyên và bất ổn xã hội.

Chỉ sau 15 năm, nhà Hán đã thay thế nhà Tần, nhưng họ áp dụng các chính sách thực tế hơn và chấp nhận những khiếm khuyết kỹ thuật của nền độc tài bằng cách giảm bớt sự kiểm soát đối với cuộc sống của người dân ở các thanh bang lân cận.

Ước mơ toàn trị của Tần Thuỷ Hoàng cần gần 2 thiên niên kỷ nữa mới có thể thực hiện nhờ sự phát triển của các công nghệ thông tin hiện đại.


(09/10/2024)

The totalitarian trinity - 3 bộ máy vận hành chủ nghĩa toàn trị Soviet

Đầu TK 19, cách mạng công nghiệp và khoa học kỹ thuật đã giúp tập trung thông tin và quyền lực vào tay của các nhà độc tài.

Khi đảng Bolsheviks nắm quyền lực tại Nga, họ đã hành động chính xác như giấc mơ của các nhà độc tài trong quá khứ. Họ tin rằng, dù con người rất thường hay phạm sai lầm, nhưng tập hợp người trong đảng Bolsheviks thì toàn năng và không điều hành sai lầm bao giờ. Họ huỷ hoại nền dân chủ bằng cách loại bỏ cơ chế bỏ phiếu, toà án độc lập, quyền tự do báo chí, trừ khử các đảng phái đối lập.

Stalin đã xây dựng một hệ thống toàn trị bao gồm 3 nhánh:

  1. Bộ máy chính phủ

  2. Bộ máy Đảng Cộng Sản

  3. Bộ máy cảnh sát chìm.

Ba bộ máy này hoạt động độc lập và song song như một nền dân chủ để kiểm soát lẫn nhau, đảm bảo trật tự cho xã hội và bộ máy toàn trị.


Total control - Kiểm soát hoàn toàn

Chủ nghĩa toàn trị kiểm soát tất cả các luồng thông tin và luôn để mắt đến tất cả các luồng thông tin độc lập khác. Nguyên lý cốt lõi của chủ nghĩa toàn trị chính là bất cứ khi nào con người trao đổi thông tin với nhau, chế độ toàn trị cũng phải được nghe.

Trong khi ở chế độ Nazis - Đức quốc xã, giáo hội, doanh nghiệp tư nhân vẫn còn một chút tự do hoạt động, chế độ Soviet kiểm soát hoàn toàn tất cả mọi thứ các bộ máy chính quyền, các đơn vị chức năng, cảnh sát ngầm hoạt động trong từng ngóc ngách của xã hội.

Đỉnh điểm là ý tưởng về nông nghiệp hợp tác xã tập trung, rằng mọi nông dân đều không còn sở hữu bất kỳ tài sản gì, họ chỉ tham gia canh tác nông nghiệp trong các đơn vị hợp tác xã nông nghiệp, tất cả các nhu cầu khác như ăn ở, giáo dục đều sẽ được hợp tác xã đáp ứng.

Trong khi Moscow kỳ vọng tăng trưởng năng suất 50% thì người dân do mất hết tài sản và không còn mưu cầu lợi ích cho cá nhân, đã làm việc kém năng suất hơn, kết cục là tổng sản lượng nông nghiệp rơi thê thảm.


The Kulaks - Thuật ngữ chỉ những người nông dân sở hữu nhiều hơn 3 hecta đất ở chế độ Soviet

Ta sẽ đào sâu hơn về chế độ nông trại tập trung vì nó là một trong những thảm hoạ kinh khủng và hiếm hoi trong lịch sử nhân loại, tương tự như thời kỳ săn bắt các phù thuỷ. Đó có thể là dữ liệu lịch sử quan trọng để ta có thể lường định được những câu chuyện tương tự có thể xảy ra vào thế kỷ 21.

Trước sự đổ vỡ của nền nông nghiệp, chính quyền Soviet đã đổ lỗi cho các thế lực chống đối "không tồn tại" - đó chính là các thế lực Kulaks - họ sở hữu nhiều hơn 3 hecta đất và họ chính là các nông dân tư bản. Và theo học thuyết Marxist, vật chất sẽ quyết định ý thức, khi họ sở hữu nhiều tư bản, họ sẽ trở nên tham lam, ích kỷ và không đáng tin cậy,... con cái của họ cũng vậy.

Và vì vậy, năm 1929, Stalin quyết định xung công quỹ tất cả tài sản của tầng lớp Kulaks. Một cuộc săn lùng Kulaks (tương tự như săn lùng phù thuỷ) đã xảy ra trên quy mô toàn diện. Tuy nhiên vấn đề là không có một định nghĩa chính xác về quy mô số lượng tài sản nắm giữ để có thể được định danh được Kulaks. Một ngôi làng nghèo ở Seberia qua lời kể của một nông dân nhiều năm sau đó rằng trong làng không một người nông dân nào sở hữu đủ nhiều để có thể bị xem là Kulaks cả, họ đã phải bốc thăm ngẫu nhiên 17 Kulaks chỉ để đạt được chỉ tiêu đề ra.

Đến năm 1933, năm triệu Kulaks đã bị đuổi khỏi nhà của họ và hơn 30,000 người đã bị giết chết, phần lớn Kulaks trở thành nô lệ và con cái của họ cũng không có được quyền cơ bản như tầng lớp vô sản thông thường, điều này tạo thành một chiến dịch nô dịch hoá lớn nhất trong lịch sử văn minh loài người.

Núi thông tin mà chế độ công quyền Soviet đã thu thập về các Kulaks hoàn toàn không phải là các sự thật khách quan mà chỉ là những thực tại liên chủ quan phù hợp với quan điểm của Soviet.


(10/10/2024)

One big happy Soviet family - Đại gia đình Soviet hạnh phúc

Soviet đã cố gắng kiểm soát cuộc sống của người dân mà thông qua câu chuyện đùa đen tối này ta có thể hiểu được phần nào:

Stalin bí mật cải trang thành dân thường và đến thăm một nhà máy, ông hỏi một công nhân: "Cha của ông là ai?" Người công nhân đáp: "Stalin" "Mẹ của nông là ai?" "Soviet" "Ông muốn trở thành ai?" "Một người mồ côi".

Một câu chuyện không hài hước chút nào, nhưng nếu bạn đùa với câu chuyện trên thì có thể mất đi mạng sống bất cứ lúc nào, kể cả bạn nói đùa với người thân trong gia đình. Điều thật sự Soviet dạy cho con dân của mình không phải là trung thành với Stalin mà là "câm cái miệng lại".


Party and church - Đảng và Nhà thờ

Nếu các Nhà thờ cũng kiểm soát mọi mặt cuộc sống hằng ngày, chế độ ăn uống và xu hướng tình dục của mọi người thì phải chăng chúng ta cũng nên xem nó như là một nền toàn trị cổ xưa, một nền toàn trị mà không cần các công nghệ thông tin hiện đại?

  1. Chế độ toàn trị hiện đại luôn có nhiều cơ chế hoạt động để kiểm soát lẫn nhau.

    Nhà thờ cận đại thì hoàn toàn độc lập.

  2. Nhà thờ cận đại thì có xu hướng hoạt động bảo thủ và không dễ dàng chấp nhận sự thay đổi. Sự bảo thủ này dẫn đến sự phát triển chậm chạp của Nhà thờ đối với những sự thay đổi lớn của xã hội. Một sự thay đổi lớn trong các vấn đề cốt lõi có thể tạo thành các cuộc đại ly giáo lớn (như chính thống giáo phương đông và công giáo)

    Soviet và Nazi thì chỉ trong 1 thế hệ đã có thể thay đổi theo tiến trình phát triển của xã hội. Họ chẳng có một truyền thống nào có tuổi đời lên đến 1 thế kỷ cả, và quan trọng hơn, khi nhà lãnh đạo yêu cầu, sự thay đổi sẽ được chấp thuận.

  3. Quan trọng hơn cả, nhà thờ cận đại không thể kiểm soát tất cả các giáo phận, chủng viện, tu sĩ,.. và vẫn buộc lòng phải nới lỏng bàn tay quyền lực để cho họ có được một sự tự do nhất định.

    Nhà thờ chỉ trở thành một nền toàn trị thật sự cho đến khi có sự tham gia của các công nghệ thông tin hiện đại.


How information flows - Dòng chảy của thông tin

Ta thấy rằng công nghệ thông tin hiện đại đã giúp phát triển nền dân chủ và cả toàn trị ở quy mô dân số lớn. Nhưng cách thông tin được truyền dẫn trong 2 hệ thống chính trị khác nhau là hoàn toàn khác nhau.

  • Thông tin truyền dẫn một cách tự do giữa các đơn vị trong xã hội dân chủ mà không phải thông qua bất kỳ một văn phòng chính phủ nào.

    Chế độ toàn trị luôn kiểm soát tất cả thông tin chảy qua một đầu mối để tập trung về đầu não của chính phủ. Có chăng thì sự lưu chuyển thông tin giữa các cơ quan (bộ 3 kiểm soát: chính phủ, đảng, cảnh sát ngầm) trong hệ thống toàn trị chỉ đơn giản là để ngăn ngừa sự trỗi dậy và đảm bảo quyền lực tuyệt đối của chính phủ.

  • Chế độ toàn trị có thể xử lý thông tin nhanh và đưa ra quyết định dứt khoát hơn các nền dân chủ, đặc biệt là trong trường hợp có thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh.

    Bất lợi của chế độ. toàn trị đó là khi các kênh truyền dẫn thông tin bị trục trặc (việc rất thường xảy ra) do vấn đề khách quan hay chủ quan thì thông tin không thể tìm kiếm được bất cứ một phương thức nào để truyền đến đầu não của chính phủ cả. Hoặc nếu có tiếp nhận được thì nó cũng sẽ là các thông tin sai sự thật mà không có một cơ chế đối chứng nào để sửa chữa thông tin.

    Chế độ dân chủ đôi khi cũng muốn bưng bít một số thông tin nhưng hệ thống thông tin phi tập trung không bao giờ chấp nhận điều đó. Bằng nhiều kênh thông tin khác nhau, sự thật sẽ luôn được công bố rộng rãi dù đó có là một sự thật mà công chúng không nên biết.

    Tai nạn lò phản ứng hạt nhân Chernobyl đã bị bưng bít cho đến khi nồng độ phóng xạ tăng cao lan từ Soviet đến tận các nước phương Tây dân chủ thì mới được phanh phui.

    Nhưng một vụ rò rỉ hạt nhân ở Pennsylvania chỉ mất 6 phút để đưa lên báo kể từ khi trường hợp khẩn cấp được ban bố, 32 phút kể từ khi bị phát hiện, 4 tiếng kể từ khi tai nạn xảy ra.


Nobody's perfect

Bên cạnh những giới hạn kỹ thuật của các đế chế toàn trị, ta không thể phủ nhận rằng chế độ của Stalin là một trong những chế độ chính trị thành công nhất - nếu ta định nghĩa thành công nghĩa là giữ gìn được trật tự và quyền lực mà bỏ qua các yếu tố về đạo đức và quyền con người.

Trong những năm 1950, rất nhiều người tin rằng chế độ của Stalin chính là tương của nhân loại sau khi Soviet đóng góp công đầu trong chiến thằng thế chiến thứ 2, mở rộng lãnh thổ từ châu Á đến trung tâm của châu Âu và tạo động lực cho rất nhiều đất nước khác học hỏi theo mô hình Soviet. Nhiều nhà tư tưởng phương Tây đã cho rằng Stalin sẽ chấm dứt thời đại của chủ nghĩa tư bản và kiến tạo nên một thế giới mới với trật tự xã hội hoàn hảo.

Sẽ thật ngây thơ khi cho rằng sự sụp đổ của Soviet chứng tỏ rằng những hệ thống toàn trị tương tự sẽ không bao giờ trỗi dậy được nữa.


The technological pendulum - Con lắc công nghệ

Khi chúng ta đã biết được rằng những hệ thống thông tin khác nhau tạo nên các chế độ xã hội khác nhau và cách các chế độ này toả sáng ở các thời điểm khác nhau hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ thông tin của thời điểm đó.

Các câu chuyện thần thoại tạo ra xã hội loài người nguyên thuỷ, kỹ thuật in ấn xây dựng chế độ dân chủ và độc tài/chuyên quyền quy mô nhỏ, công nghệ thông tin hiện đại tạo ra nền dân chủ và toàn trị quy mô lớn.

Chế độ toàn trị thì tập trung thông tin về động mạch chủ, khi có ngày một nhiều thông tin cùng chảy thì có nguy cơ nhồi máu cơ tim không? Chế độ dân chủ thì tương tự như mặt trời với các hành tinh vận động xung quanh, khi các hành tinh quay ngày một nhanh hơn thì lực hấp dẫn có đủ mạnh để giữ các hành tinh trong hệ mặt trời không, hay là chúng sẽ tan rã?

Chế độ dân chủ, khi mà chỉ được vận hành bởi những người đàn ông da trắng giàu có thì tương đối đơn giản để đạt được những thoả ước tập thể, tuy nhiên ngày nay khi những người nghèo, phụ nữ, LGBT, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật và thành viên của những giáo phái đối nghịch nhau cùng mang ý kiến của họ ra để mưu cầu lợi ích, điều này làm cho rất nhiều những thoả ước cũ bị lung lay. Việc duy trì những cuộc đối thoại dân chủ một cách có trật tự hiện nay không còn đơn giản nữa, khi mà người dân còn không thể thống nhất được với nhau về quy tắc của việc tranh luận.

Cảm thấy không được lắng nghe, thất bại với việc đối thoại hoà bình, nhiều người đã bắt đầu dùng đến vũ lực. Các cuộc ám sát chính trị, bắt cóc, biểu tình và khủng bố đã liên tiếp xảy ra. Những nỗ lực duy trì nền dân chủ cho tuyệt đại đa số người dân dường như đang được đánh đổi bằng trật tự xã hội.

Bắt đầu của thế kỷ 21, khi mà cuộc chiến giữa dân chủ và toàn trị đã ngã ngũ, chiến thắng của nền dân chủ có vẻ là nhờ quá trình phân tích thông tin phi tập trung thích ứng một cách hiệu quả hơn so với hệ thống phân tích dữ liệu tập trung truyền thống.

Nhưng điều đó là không chính xác, hoặc ít nhất là nó chỉ chính xác ở hiệp 1. Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại hơn đang bắt đầu có những bước phát triển đầu tiên mang cuộc chiến giữa dân chủ và toàn trị, giữa thông tin tập trung và phi tập trung vào hiệp thứ 2. Nền dân chủ đang phải đối mặt với ngày càng nhiều những tiếng nói hơn, trong đó có tiếng nói của một nhân vật không phải là con người, đó chính là AI, song sóng đó AI lại mang giấc mơ toàn trị tuyệt đối đến cho chế độ toàn trị. Cách họ phản ứng với những mối đe doạ và cơ hội mới sẽ định hình tương lai của thế giới này, đó có thể không phải là cuộc chiến giữa 2 hệ tự tưởng dân chủ - toàn trị bị ngăn cách bởi bức tường sắt Berlin nữa, mà là cuộc chiến giữa con người và những thế lực không phải con người bị ngăn cách bởi tấm màn Silicon.


Tóm tắt sách NEXUS - Yuval Noah Harari - Phần I. Mạng lưới thông tin nhân tạo - Chương 5. Lược sử nền dân chủ và chủ nghĩa toàn trị

by Hieuletrung

Related Posts

Comments

Share Your ThoughtsBe the first to write a comment.
bottom of page