
Về nguyên nhân của sự cải tiến trong năng suất lao động và về thứ tự phân phối sản phẩm của sức lao động giữa các tầng lớp khác nhau
0
10
0

Trước khi đi vào nội dung thì tôi muốn gửi một lời chê sâu sắc đến dịch giả, có thể nói là cực kỳ sơ sài, chỉ ở 1 vài trang đầu tiên, các lỗi dịch làm sai hoàn toàn ý nghĩa của nguyên tác, tôi đã phải dừng lại rất nhiều lần để phải đọc bản gốc mới có thể hiểu được ý nghĩa của tác giả. Cụ thể:
Đoạn nói về việc phân công lao động làm gia tăng năng suất thông qua gia tăng tay nghề của người lao động
Nguyên tác trang 13: The rapidity with which some of the operations of those manufacturers are performed, exceeds what the human hand could, by those who had never seen them, be supposed capable of acquiring.
Bản dịch trang 43: Tốc độ nhanh chóng trong việc thực hiện một số quy trình trong hoạt động sản xuất vượt qua những gì bàn tay con người có thể đạt được nếu họ chưa tận mắt chứng kiến
Chat GPT dịch: Tốc độ thực hiện công việc tại một số công đoạn trong các xưởng sản xuất vượt xa mức mà những người chưa từng chứng kiến có thể tưởng tượng rằng bàn tay con người có thể đạt được.
Đoạn nói về việc phân công lao động làm gia tăng năng suất thông qua giảm hao phí thời gian chuyển đổi giữa các công việc khác nhau:
Nguyên tác trang 13: A country weaver, who cultivates a small farm, must lose a good deal of time in passing from his loom to the field and from the field to his loom.
Bản dịch trang 43: Một thợ dệt ở nông thôn, canh tác trên một cánh đồng nhỏ, phải mất rất nhiều thời gian để di chuyển khung cửi của mình ra cánh đồng và ngược lại.
Chat GTP dịch: Một người thợ dệt ở nông thôn, người vừa trồng trọt trên một mảnh ruộng nhỏ, chắc chắn sẽ mất khá nhiều thời gian khi phải di chuyển qua lại giữa khung cửi và cánh đồng.
Sự thịnh vượng của các quốc gia - Adam Smith
The wealth of nations - Adam Smith
Quyển 1: Về nguyên nhân của sự cải tiến trong năng suất lao động và về thứ tự phân phối sản phẩm của sức lao động giữa các tầng lớp khác nhau
Book 1: Of the causes of improvement in the productive powers of labour, and of the order according to which its produce is naturally distributed among the different ranks of the people.
Chương 1. Về sự phân công lao động - Of the division of labour
Sự cải thiện lớn nhất trong năng suất lao động là kết quả của sự phân công lao động. Vì:
Độ khéo léo của mỗi người lao động tăng lên
Sự phân công lao động khiến công việc của một lao động trở thành một quy trình đơn giản và khi anh ta chỉ làm chuyên môn hoá một công việc trong cả cuộc đời, chắc chắn độ khéo léo của anh ta tăng lên.
Tiết kiệm được thời gian vốn thường bị hao phí khi chuyển từ loại công việc này sang loại công việc khác
Một người nông dân vừa phải làm vườn vừa làm thợ dệt tại nhà thì việc chuyển đổi giữa vị trí làm vườn và vị trí đặt khung cửi là một khoảng hao phí thời gian rất lớn. Kể cả ở cùng một công xưởng thì việc chuyển đổi công việc với các công cụ và máy móc khác nhau cũng hao phí một khoảng thời gian tương đối đáng kể, chưa kể sự xao nhãng của người lao động.
Phát minh ra máy móc giúp tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm sức lao động.
Chương 2. Về nguyên tắc chi phối việc phân công lao động - Of the principle which gives occasion to the division of labour
Trong một bộ lạc săn bắn và chăn cừu, có một người chuyên tạo ra những chiếc cung tên khéo léo và nhanh hơn bất kỳ ai khác. Anh ta thường xuyên trao đổi chúng để lấy gia súc với những người khác trong bộ tộc; cuối cùng anh ta nhận ra bằng cách này anh có thể có được nhiều thịt hơn cả việc tự đi săn. Tương tự với một thợ dệt quần áo hay một thờ rèn vũ khí. Do đó, sự chắn chắn về khả năng trao đổi phần thặng dư sức lao động của mình cho người khác khuyến kích mọi người nỗ lực hết mình vào một nghề nghiệp cụ thể (phân công lao động).
Vậy làm sao để ta biết được rằng cung tên của mình có thể chắc chắn đổi được thịt? Đó là nhờ sự phát triển lý trí, ngôn ngữ tạo ra những giao kèo giữa những người có các tài năng khác nhau, giữa người khéo léo giỏi làm cung tên và người có sức khoẻ để săn bắt. Trong xã hội loài người, những thiên tài khác biệt nhất biết tận dụng tài năng của nhau; thông qua khuynh hướng buôn bán, trao đổi, và được đưa và một kho chung, nơi mỗi người có thể mua bất kỳ phần nào từ sản phẩm của những người có tài năng mà họ có nhu cầu.
Chương 3. Sự phân công lao động bị giới hạn bởi quy mô thị trường - That the division of labor is limited by the extent of the market
Vì sức mạnh của sự trao đổi tạo cơ hội cho sự phân công lao động, nên phạm vi của sự phân công lao động luôn bị giới hạn bởi mức độ của sức mạnh đó, hay nói cách khác là bị giới hạn theo quy mô của thị trường.
Một ngôi làng hẻo lánh thì một người dân có thể phải kiếm cả việc làm mộc, rèn sắt, ủ bia và cả làm bánh mì.
Một ngôi làng đông dân hơn thì một người thợ mộc có thể phải đảm nhận tất cả phần công việc chế biến chế tạo có liên quan đến gỗ (tủ, bàn, cày, xây dựng nhà, bánh xe,...)
Nhưng ở một thành phố lớn, với giao thông thuỷ nội địa phát triển, một người thợ mộc có thể chuyên tâm đóng bàn ghế quanh năm suốt tháng mà không hết việc.
Còn nếu người thợ đó làm việc trong một nhà máy cạnh các hải cảng thì có thể anh ta chỉ cần thực hiện công việc có độ chuyên môn hoá cực cao như đóng chân bàn, và anh ta có thể đóng được hàng trăm chiếc trong một ngày, một số lượng mà cả thành phố cũng không thể sử dụng hết.
Lịch sử phát triển văn mình nhân loại cũng có thấy rằng, các nền văn minh đều phát sinh từ lưu vực sông có các nhánh lớn phục vụ hoạt động giao thương (Lưỡng Hà, sông Hằng, sông MêKong, sông Trường Giang)
(18.11.2025)
Chương 4. Về nguồn gốc và cách sử dụng tiền tệ - Of the origin and use of money
Khi mỗi một người lao động đều thực hiện trao đổi sản phẩm thặng dư từ sức lao động của mình lấy các thặng dư khác của xã hội thì khi đó mỗi người hoạt động không khác gì một thương nhân và xã hội trở thành xã hội thương mại thực sự.
Tuy nhiên việc trao đổi hàng hoá vẫn có những bất tiện nhất định khi mà người thợ không thể trao đổi bánh mì lấy thịt vì người chăn nuôi đã có thừa bánh mì rồi.
Kim loại (sắt ở Sparta, đồng ở La Mã, vàng ở các nước giàu có) thường được sử dụng để làm vật trao đổi trung gian vì rất nhiều đặc tính mà hầu như không một loại hàng hoá nào có thể có được: ít hư hao, có thể chia nhỏ hoặc hợp nhất.
Thử nghĩ xem nếu 1/2 con bò là đủ để đổi 1 ít muối, 1 ít đường, 1 cân ngũ cốc, 1 cái bàn và 1 sợi dây thừng thì:
5 thương nhân khác nhau không thể cùng tụ tập tại 1 địa điểm để bạn tiến hành mổ bò chia cho từng người, và nếu cả 5 người đều thích phần đùi bò thì sao?
1/2 con bò còn lại bạn làm sao có thể bảo quản mà không hư hao?
Tuy nhiên, các thanh kim loại cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm về vấn đề định lượng cũng như câu hỏi về chất lượng - độ tinh khiết của kim loại. Từ đó các loại tiền đồng được đóng dấu dần được đưa vào lưu thông, được đảm bảo bởi nhà nước.
(20.11.2025)
Chương 5. Giá thực tế và giá danh nghĩa của hàng hoá, hay giá tính bằng lao động và giá tính bằng tiền - Of the real and nominal price of commodities, or of their price in labour, and their price in money
Sau khi quá trình phân công lao động được diễn ra hoàn toàn, mỗi người đểu chỉ có thể tự sản xuất được 1 phần rất nhỏ nhu cầu của bản thân và phần nhu cầu còn lại sẽ được trao đổi bằng chính thặng dư lao động của bản thân anh ta để đổi lấy thặng dư lao động của người khác (xã hội).
Vậy, giá trị hàng hoá anh ta sở hữu bằng chính sức lao động thặng dư của mình, hay nói cách khác, lao động chính là thước đo giá trị trao đổi của hàng hoá.
Tuy nhiên, khi trao đổi 2 loại hàng hoá khác nhau, ta không thể so sánh tương quan giữa giá trị của 2 loại lao động khác nhau tạo ra 2 hàng hoá đó, vì bản chất của lao động là tổ hợp của thời gian, sự nỗ lực cơ bắp, sự nỗ lực trí tuệ, sự khéo léo bẩm sinh và cả kinh nghiệm được đúc kết trong nhiều năm tập hợp lại.
Do đó, giá trị trao đổi của hàng hoá được ước tính bằng số lượng tiền.
Tiếp tục đến tiền vàng hay bạc lại có giá trị thay đổi liên tục phụ thuộc vào sức lao động bỏ ra để có thể mang vàng bạc ra thị trường. Ví dụ như khi khám phá ra một mỏ vàng trữ lượng lớn và dễ khai thác, với cùng nỗ lực lao động, ta có được nhiều vàng hơn, khi đó cùng một lượng vàng ta chỉ có thể mua một số lượng hạn chế hơn hàng hoá khác. Như vậy, cùng một lượng tiền vàng có thể mua được nhiều hơn hay ít hơn một số lượng hàng hoá tuỳ thuộc vào độ khan hiếm của vàng và hàng hoá. Nhưng thật ra về bản chất, sự tương quan giữa sức lao động để có được vàng và sức lao động để tạo ra hàng hoá hoàn toàn không hề thay đổi.
Lao động là giá thực tế của hàng hoá; tiền chỉ là giá danh nghĩa của hàng hoá.

















